Chính sự táo bạo, độc đáo và suy nghĩ đi trước thời đại đã giúp các kiến trúc sư bình thường tạo cho mình những công trình để đời khác biệt, không thể nhầm lẫn với bất cứ ai, từ đó trở thành những kiến trúc sư hàng đầu thế giới.
Kiến trúc sư Frank Gehry
Frank Gehry nổi tiếng với tác phẩm được coi là tuyệt tác đương đại trong ngành xây dựng và kiến trúc. Công trình của ông không thể nhầm lẫn với bất cứ ai.
Frank Owen Gehry sinh năm 1929 là nhà kiến trúc sư tài ba của Mỹ người gốc Canada. Ngay từ khi còn nhỏ, Frank Gehry đã thể hiện mình là một đứa trẻ sáng tạo, đồng thời được bà ngoại và người thân trong gia đình khuyến khích tự xây dựng thành phố nhỏ từ những mẩu gỗ vụn. Ông bắt đầu được trao cơ hội thiết kế tác phẩm đầu tay vào năm 28 tuổi.
Đến năm 1989, Gehry được trao giải thưởng: Giải thưởng Kiến trúc Pritzker.
Các công trình nổi tiếng thế giới của ông phải kể đến như: Thủy cung biển Cabrillo (1981) ở San Pedro và Bảo tàng Hàng không Vũ trụ California (1984) tại Bảo tàng Khoa học và Công nghiệp California ở Los Angeles, Chiat / Day Building (1991)
Gehry bắt đầu bước lên một trình độ mới từ năm 1997 với tác phẩm: Bảo tàng Guggenheim Bilbao tại Bilbao, Tây Ban Nha. Tác phẩm này đã được tờ The New Yorker ca ngợi là kiệt tác các thế ký XX.
Một số công trình khác của ông tiếp tục gây tiếng vang lớn như: Phòng hòa nhạc Walt Disney, bảo tàng văn hóa Pop, tòa nhà Dr Chau Chak.
Phong cách thiết kế kiến trúc của Gehry phản ánh tinh thần thử nghiệm, bứt phá đồng thời cũng không quên tôn trọng các yêu cầu của thực tiễn để phù hợp với xu hướng phát triển hiện đại. Ông là một trong những kiến trúc sư nổi tiếng hàng đầu thế giới luôn luôn đi trước thời đại, các công trình của ông thường có một số yếu tố của cấu trúc giải cấu trúc. Không chỉ vậy, Gehry còn được mệnh danh là” tông đồ của hàng rào liên kết chuỗi và vách kim loại lượn sóng”.
Kiến trúc sư Cesar Pelli
Cesar Pelli sinh năm 1926 là kiến trúc sư tài ba của Argentina (quốc tịch Mỹ). Ông sinh ra trong một gia đình công chức có mẹ làm giáo viên. Cesar Pelli bắt đầu bị cuốn hút và cảm thấy vô cùng yêu thích các lĩnh vực: kiến trúc, vẽ, lịch sử, toán học, hội họa, nghệ thuật
Cesar Pelli kiêu hãnh với những công trình đã được cách tân ở nhiều chi tiết nhưng vẫn đảm bảo duy trì được các yếu tố nhân văn.
Năm 1964, ông trở thành giám đốc thiết kế tại Daniel, Mann, Johnson và Mendenhall ở Los Angeles.
Năm 1968, ông trở thành đối tác thiết kế tại Gruen Associates ở Los Angeles.
Năm 1977, Pelli được chọn làm trưởng khoa kiến trúc của trường Yale ở New Haven.
Sau năm 1984, ông đến Yale để thành lập ủy ban thiết kế mở rộng và cải tạo Bảo tàng nghệ thuật hiện đại ở New York, sau đó ông đã thành lập được công ty riêng cho mình.
Năm 1995 Pelli được Viện Kiến trúc sư Hoa Kỳ ( AIA ) vinh danh với Giải thưởng Huy chương Vàng danh giá. Năm 2004, ông đã nhận được giải thưởng Aga Khan về Kiến trúc cho Tháp Petronas và sự hòa hợp của họ với văn hóa Hồi giáo ở Malaysia. Pelli đã được vinh danh với Giải thưởng Cuộc sống và Công việc của Cemex năm 2006. Năm 2012, Giải thưởng Konex de Brillante, Giải thưởng Konex Foundation là nhân vật có liên quan nhất trong nghệ thuật thị giác của Argentina trong thập kỷ qua.
Các công trình nổi tiếng để đời của ông cần được nhắc như: văn phòng Đôi Petronas Twin Towers, Trung tâm biểu diễn nghệ thuật Adrienne Arsht ở Miami, phòng hòa nhạc Renee và Henry Segerstrom và Nhà hát Samueli ở Costa Mesa…
Kiến trúc sư Ieoh Ming Pei – IM Pei
Ieoh Ming Pei – IM Pei sinh năm 1917 là một trong những kiến trúc sư nổi tiếng trên nền kiến trúc hiện đại gốc Trung Quốc, định cư tại Mỹ. Phong cách thiết kế của ông là những khối hình học trừu tượng, sử dụng vật liệu xây dựng chính là đá, bê tông, kính cường lực, thép.
Ieoh Ming Pei – IM Pei học bằng thạc sĩ kiến trúc tại Đại học Harvard. Tiếp sau đó, ông được gia nhập vào đội ngũ kiến trúc sư của công ty Webb và Knapp. Tại đây, ông học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm , công trình đầu tiên là một tòa nhà chung cư với sự hỗ trợ từ Luật Nhà.
Văn phòng Thiết kế I. M. Pei và cộng sự đã được thành lập năm 1955 để tiếp tục theo đuổi con đường mình đã chọn.
Các công trình của ông chú trọng sự hiện đại, đồng thời kết hợp hài hòa các nguyên tắc kiến trúc truyền thống với thiết kế tiến bộ dựa trên các khối hình học đơn giản như hình tròn, hình vuông, hình tam giác… Ông cũng quan tâm đến các yếu tố về cả mặt bằng và chiều cao.
Ieoh Ming Pei – IM Pei được trao nhiều huân huy chương và giải thưởng danh giá: Giải thưởng Thành tựu trọn đời của Cooper-Hewitt, Bảo tàng Thiết kế Quốc gia , Huy chương Edward MacDowell năm 1998 tại Nghệ thuật, và Huy chương Vàng Hoàng gia 2010 từ Viện Kiến trúc sư Hoàng gia Anh . Năm 1983, ông được trao giải thưởng Pritzker , đôi khi được gọi là giải thưởng kiến trúc Nobel. Vào tháng 12 năm 1992, Pei được Tổng thống George HW Bush trao tặng Huân chương Tự do của Tổng thống .
Các công trình nổi tiếng thế giới của người kiến trúc sư tài ba này gồm: Kim tự tháp bằng kính ở bảo tàng Louvre Paris, khu phố Raffles giàu có tại Singapore, tòa nhà ngân hàng Trung Hoa là đặc khu hành chính Hong Kong đồng thời cũng là biểu tượng của vùng đất này, Nhà ga trung tâm tại sân bay JFK International Airport ở New York, Trung tâm Hội nghị Jacob K. Javits , Manhattan, New York, Hoa Kỳ, Trung tâm giao hưởng Meyerson, Dallas …
Tin bài liên quan:
Kiến trúc sư Renzo Piano
Renzo Piano sinh năm 1937 là kiến trúc sư nổi tiếng của Ý. Ông tốt nghiệp Đại học Bách khoa Milan và có một thời gian làm giáo viên tại đại học Bách Khoa. Tuy nhiên thay vì làm giáo viên, ông đã chọn làm việc ở các công ty kiến trúc để phát triển bản thân.
Ông được đánh giá là một trong những kiến trúc sư tiêu biểu nhất của thế hệ kiến trúc sư thứ 3 của thế kỷ XX. Phong cách thiết kế của ông khó mà bị nhầm lẫn bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn của nghệ thuật và kỹ thuật của thiên nhiên và nhân tạo, của các giá trị truyền thống và công nghệ hiện đại, giữ khối óc đầy sáng tạo tư duy và bàn tay thiết kế xây dựng linh hoạt, tài ba.
Cùng giống như Ieoh Ming Pei – IM Pei , nhà kiến trúc sư tài ba Renzo Piano nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá:
– 1990, Cavaliere di Gran Croce Ordine al Merito della Repubblica Italiana
– 1990, Giải thưởng Kyoto
– Huân chương Văn hóa và Nghệ thuật Ý , 28 tháng 3 năm 1994
– 1995, Giải thưởng Erasmus
– 1995, Praemium Imperiale
– 1998, Giải thưởng kiến trúc Pritzker .
– 2002, Huy chương vàng Liên minh Kiến trúc sư Quốc tế # UIA .
– 2004, Tiến sĩ danh dự từ Đại học Columbia , New York
– 2006, Huy chương vàng cho kiến trúc Ý , Milano. Cũng trong năm này, ông được TIME bình chọn là một trong 100 người có ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.
– 2008, Huy chương vàng AIA
– 2017, Hiệp sĩ thập tự giá của trật tự dân sự của Alfonso X, Wise
Những công trình để đời của ông phải kể đến như: The Shard , London , UK (2012), bảo tàng nghệ thuật Mỹ Whitney, The Shard, London, Bảo tàng nghệ thuật hạt Los Angeles, Bảo tàng Nghệ thuật Harvard, Cambridge, Massachusetts, Cổng thành phố và Tòa nhà Quốc hội, Trung tâm văn hóa tổ chức Stavros Niarchos, Athens, Hy Lạp (2016)…
Kiến trúc sư Le Corbusier
Le Corbusier (1887 – 1965) là kiến trúc sư nổi tiếng của Thụy Sỹ. Ông là một trong những kiến trúc sư nổi tiếng thế giới không qua bất cứ một trường lớp đào tạo chính thống nào.
Cái duyên kiến trúc đến với ông từ năm 15 tuổi khi bước vào trường nghệ thuật thành phố ở La-Chaux-de-Fonds. Ba năm sau, ông tham gia khóa học trang trí cao cấp được thành lập bởi họa sĩ Charles kèmplattenier. Giáo viên kiến trúc sư René Chapallaz, có ảnh hưởng đến các thiết kế đầu tiên của Le Corbusier. Nhưng chính giáo viên mỹ thuật Selplattenier đã khiến ông phải chuyển sang ngành kiến trúc.
Le Corbusier đa dành thời gian để đi đến rất nhiều nơi tham quan, học hỏi lối kiến trúc, vẽ gần 80 quyển phác thảo những gì mà ông được nhìn thấy. Đến năm 1912 ông bắt đầu dự án với một ngôi nhà mới cho bố mẹ và anh trai.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, ông bắt đầu có những nghiên cứu nghiêm túc về việc sử dụng bê tông cốt thép làm vật liệu xây dựng. Và từ thời điểm đó, các công trình kiến trúc của ông bắt đầu nhiều hơn, nổi tiếng hơn.
Những công trình để đời của Le Corbusier: Maison La Roche / Albert Jeanneret (1923 – 1925), biệt thự Savoye (1928 – 1931), năm 1926 ông tham gia xây dựng trụ sở Liên minh các quốc gia tại Geneva, dự án Moscow (1928 – 1934), Cité Universitaire, Imme nát Clarté và Cité de Refuge (1928 – 1933).